Văn tế cụ Tiểu La Nguyễn Thành
Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 10 Tháng 11 2020 21:56 Viết bởi Ban Biên Tập Thứ ba, 10 Tháng 11 2020 21:34
VĂN TẾ CỤ TIỂU LA NGUYỄN THÀNH
Sau khi cụ Nguyễn Thành hy sinh ngoài Côn đảo, nhiều đồng chí của Cụ như Phan Châu, Huỳnh Thúc Kháng…đã viết nhiều bài văn, câu đối bày tỏ lòng tiếc thương rất xúc động; trong đó, bài tưởng tiếc của cụ Sào Nam được đánh giá là một tuyệt tác (xin xem trước phần trích dẫn ở cuối)
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập ngôi trường được vinh dự mang tên cụ Tiểu La, một lần nữa, thầy và trò trường Tiểu La Thăng Bình thuộc nhiều thế hệ xin dâng một bài văn tưởng niệm Cụ; đồng thời mong ước qua bài này, học sinh của trường có thêm một tư liệu dễ nhớ về cuộc đời của bậc chí sĩ cách mạng đất Thăng Bình, Quảng Namngười được lịch sử ghi nhận có vai trò hết sức quan trọng là " góp phần mở mối cho các phong trào Duy Tân, đông Du trên đất Việt” đầu thế kỷ XX.
Bài này vận dụng lại một số hình ảnh biểu cảm (được in đậm) ca ngợi cụ Tiểu La trong các bài tưởng niệm của các bậc chí sĩ đã nêu trên với mong muốn chuyển tải đến học sinh chân dung đẹp đẽ của một người con đất Thăng Bình, Quảng Nam hết lòng vì nước vì dân và đã hy sinh ở chốn lao tù giữa bốn bề sóng gió
1. Hỡi ôi!
Thiên địa bất bình…
Phong vân vị chí… (*)
Cơ trời nghiêng ngửa, nghĩa Cần vương lộ diện bậc anh hùng
Vận nước chông chênh, bước phục quốc tỏ tường danh chí sĩ
đất hào hiệp sanh trang hào kiệt; cuộc Duy Tân khai mở thời cơ
Chốn anh linh đỡ kẻ anh tài; đường Nghĩa hội đắp bồi chính khí
Trại Nam Thịnh đón người tâm huyết: vạch đường chỉ lối đông du
Hội Duy Tân mời bậc cao minh: thảo kế bàn mưu đại nghị!
2. Nhớ linh xưa
Tập ấm nghiêm đường
Rạng ngời tráng chí
Thông thuộc sách thánh hiền
Giỏi giang đường binh bị
Khoa Ất Dậu (1885) kỳ thi hương bị hoãn, về quê nhà tụ tập dân binh
Năm Bính Thân (1886) thư Nghĩa hội gọi mời, lên Tân Tỉnh đảm đương quân vị
Lúc tiên phong tác chiến công đồn
Khi tập hậu tịch thu vũ khí
Tung hoành trận mạc: khi La Nga, khi Eo Gió…vất vả gian lao
Xuôi ngược việc binh: lúc Bình định, lúc Cẩm Thành … oai hùng tráng khí
Vây La Qua thành tỉnh: binh triều thua rụt cổ co đầu
đánh Thu Bồn hạ nguồn: giặc Pháp chạy kinh hồn bạt vía
Những tưởng
Khôi phục cõi bờ
Giúp an vương vị
Nào ngờ:
bị Việt gian bất thần đánh úp, vào ngục đành ẩn nhẫn chờ thời
rồi Nam triều vội vã dàn hòa, ra tù vẫn ung dung rèn chí
Vậy nên:
Về quê cũ lập sơn trang một dải, cùng dân nông chăm chút chuyện nhà nông
Gặp bạn xưa trao “sách mới” nhiều nơi, gọi kẻ sĩ nấu nung hồn chí sĩ!
Giở tân thư đọc sớm đọc hôm
Tìm thân hữu đồng thanh đồng khí
Tự xét thấy cuộc dinh hoàn biến cải, chẳng thể nào theo lời hịch Cần Vương!
Cùng xem qua thế châu Á đổi thay, phải tiến kịp thời con đường chính trị!
Bao phen ôn cố tri tân
Lắm lúc lao tâm khổ trí
Duyên kỳ ngộ gặp kỳ nhân xứ Nghệ, cùng bôn ba lập hội Duy Tân
Trao tân thư cho tân khách bốn phương, mong tính toán kết liên đồng chí
Nhìn Nhật Bản vững vàng nhờ Minh Trị, càng muốn khai thông
Ngẫm Trung Hoa suy yếu bởi liệt cường, những mong gỡ bí
Lập thương hội kinh doanh vì tổ chức, tuyển người tài du học Phù Tang
Mở hội công trù hoạch với công nhân, lựa kẻ giỏi đúc rèn vũ khí.
Vạch kế sách đưa Sào Nam rời nước, đường đông du nhờ trí kẻ anh hùng
Vững cơ mưu tôn Cường để lên đài, ngôi hội chủ dựa thế người chính vị
Một tay sắp xếp chu toàn
Bao năm miệt mài chuẩn bị
Những mong:
Bên ngoài ngoại viện nhiều nơi
Trong nước toàn dân một ý
Quyết một trận giành gươm vàng mở nước, buộc Lang Sa xếp giáp cuốn cờ
Liều một phen đạp sóng bạc ra khơi, cùng đông Á khai tâm mở trí. (1a)
Thế nhưng!
đại cuộc bất thành
Lâm vòng lao lý
Vì tội “xúi giục khất thuế cự sưu”
cùng tội “hô hào chấn hưng dân khí”
Lưới cường quyền bủa sụp: thất thế phải chịu lưu đày
Thân hào kiệt hy sinh: sa cơ đành lâm vận bĩ (2a)
Côn Lôn u ám lao tù
Thạnh Mỹ mịt mờ cố lý
3.Than ôi!
Những tưởng nơi tử tù sóng gió, bền gan kẻ thắng quay về
Nào ngờ cơn bạo bệnh bất thần, cướp mạng người đi an trí
Sống giữa lòng đồng bào
Chết trong tay đồng chí
Quê xứ cũ người thân mòn mỏi đợi, giấc hương quan đành gởi chốn tha phương
Nước non xưa bạn hữu ngậm ngùi trông, mộng phục quốc xin trao người hữu chí
Biển Côn đảo đắp xây mồ thần thánh, sóng trùng dương réo gọi tiếng chiêu hồn
Mây Hải Vân nghi ngút khói tinh thành, núi Non Nước giăng thành bia bất hủ (1b)
4. Ôi thôi thôi!
Non nước gấm hoa
Giang sơn hùng vĩ
đau đớn bấy hồn bay trên cánh sóng, hạc vàng biệt dấu mưa nguồn!
Não nùng thay thân gởi giữa mù khơi, mây trắng còn in chớp bể!
Ôi!
Một khúc ngậm ngùi
Mấy dòng kể lể
Tiếc thương người cứu nước, hãy còn nghe hai chữ “vá trời”
Tưởng nhớ đấng anh hùng, như còn thấy đôi tay “tế thế” (2b)
Nay!
Thầy trò trường Tiểu La chúng tôi:
Lớp trước lớp sau
Người còn kẻ nghỉ
Noi gương hào kiệt: dạ sắt lòng son
Nối bước anh linh: thành tâm chánh ý
đồng lòng dâng nén tâm hương
Cung chiêu anh hồn chí sĩ
Kính bút
Lê đình Cương
(cựu giáo viên 1975-1979)
Trích dẫn:
(*) Dẫn nhập từ câu thơ của cụ Tiểu La “Thiên địa bất bình nan bế khẩu/ Phong vân vị chí thả mai đầu” ( Tạm dịch ý: Trời đất bất bình khó ngậm miệng/ Thời cơ chưa đến hãy ẩn mình)
1a,1b:
Trích từ các câu trong bài ai điếu của cụ Phan Bội Châu khóc cụ Tiểu La “Mây Hải Vân mờ mịt bóng gươm vàng; Bể đà Nẵng chập chờn cơn sóng bạc” và “ Côn Lôn đảo đắpxây mồ thần thánh, tiếng chiêu hồn ba vạn sóng chung quanh/ Ải Vân quan nghi ngút khói tinh thành, bia bất hủ mấy hàng non giăng dấu”.
2a,2b:
Trích ý và trích lời từ các câu đối tưởng niệm Tiểu La của cụ Huỳnh Thúc Kháng “ Lưới cường quyền bủa sụp xuống người khôn/ Thân hào kiệt hy sinh vì sóng dữ” và “Hai mươi năm giống trái vẫn còn, nào kinh tế, nào quân lữ, nào bí mật vận động gia, trăm lần uốn chẳng cong; đời cựu buổi tân, vị trí nghiễm nhiên giành một chiếu/ đôi ba bạn ruột rà thân thiết, kẻ sang đông, người sang Tây, kẻ lại cùng hoang đày đọa; một ngày kia về nước, đỡ sau vùa trước, tiền trình buồn nỗi thiếu hai tay”cùng trích ý từ 2 câu chữ Hán trong bài thơ vĩnh quyết của cụ Tiểu La “Bổ thiên vô lực, đàm thiên dị/ Tế thế phi tài, tỵ thế nan” (“Vá trời thiếu sức bàn nghe dễ/ Cứu thế không tài tránh ở đâu?” - cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch)